Vitamin B2 (Riboflavin) có rộng rãi trong tự nhiên, trong các lá xanh của cây. Trong các hạt có ít, khoai tây và các loại củ nghèo riboflavin. Trái lại, cà chua và các loại rau có lá tương đối nhiều.
Các loại men chứa nhiều riboflavin nhất: men bánh mì 6mg%, men bia 4mg%. Các loại đậu như đậu nành 0.3mg%. Với các loại thực phẩm động vật, riboflavin có nhiều trong phủ tạng: gan 0,2mg%, tim 0,5mg%.
Thịt cũng là nguồn B2 rất tốt, khoảng 0,2mg%, trứng khoảng 0,3mg%, cá nghèo riboflavin. Riboflavin tương đối bền vững ở nhiệt độ đun nấu bình thường và ít bị phá hủy.
Riboflavin có thể mất nhiều do ảnh hưởng của ánh sáng, tia tử ngoại hoặc khi đun nấu trong nồi kín. Phần lớn các loại men, thực vật, nấm cũng như một số vi khuẩn có khả năng tổng hợp được riboflavin.
Vai trò sinh học chính cuả riboflavin là tham gia vào thành phần cấu tạo các flavoproteid và hoạt động như là những enzyme. Riboflavin cần thiết cho chuyển hoá protein, khi thiếu B2, một phần acid amin của thức ăn không được sử dụng và ra ngoài theo nước tiểu.
Riboflavin có ảnh hưởng tới cấu trúc tế bào, làm tăng tính thấm của màng tế bào đối với một số chất như glucose. Cũng như vitamin A, riboflavin có ảnh hưởng tới khả năng cảm thụ ánh sáng của mắt, nhất là đối với sự nhìn màu.
Cơ chế tác dụng của riboflavin đối với thị giác chưa hoàn toàn rõ ràng. Khi thiếu vitamin B2 xảy ra những tổn thương của giác mạc mắt. Các triệu chứng thiếu riboflavin thường gặp nhất là các tổn thương ở niêm mạc lưỡi, mặt lưỡi trở nên xẫm đỏ, bề mặt có những hạt nhỏ, gai lưỡi trở nên phẳng, sau đó teo lại.
Ngoài ra thiếu riboflavin còn gây ra các biến đổi ở máu, quá trình tổng hợp hemoglobin bị rối loạn, đồng thời còn xuất hiện các bệnh khác như viêm gan, xơ gan, viêm màng phổi, thấp khớp… Nhu cầu riboflavin là 0,55mg/1000 kcal.